Thứ Bảy, 6 tháng 2, 2016

Cách xem Cung Mệnh Vô Chính Diệu &: Luận bàn về cách cục "Ngoại Tình" trong tử vi

Cách xem Cung Mệnh Vô Chính Diệu: Luận đoán thế nào cho đúng?

Cách xem cung vô chính diệu vẫn luôn là vấn đề nan giải và khó thống nhất giữa nhiều trường phái tử vi. Bởi lẽ môn tử vi ảo diệu thâm sâu nên gần như các trường phái khác nhau lại có những lý giải khác nhau và áp dụng vào thực tế thì cũng đúng trong nhiều trường hợp khác nhau. 

Tuy nhiên việc luận giải cung mệnh vô chính diệu từ xưa tới nay không phải là điều đơn giản. Ở bài này chúng ta sẽ cùng luận bàn về cung mệnh vô chính diệu qua sự trình bày quan điểm của tác giả Kim Ca. 

Theo quan điểm của Kim Ca thì Tử vi quả là một môn rất rất khó học, bởi vì suy cho cùng nguồn gốc của Tử vi là không rõ ràng, đã thế lại chia thành nhiều bè phái. Sách vở thì ngày càng nhiều, cao thủ thì ngày càng đông. Người không biết thì cố tỏ ra tinh thông hiểu biết, người biết thì thò thò thụt thụt cắt xén dấu đi cho con em đệ tử, thành thử hậu học không hiểu cái lý rõ ràng nên quy Tử vi là tà Đạo. 


Để làm sáng tỏ thêm một số vấn đề, hy vọng giúp một số người hiểu thêm và có niềm tin vào Tử vi. Nhân tiện đọc bài của anh thatsat thấy đề cập đến Tuần Triệt nhưng quá ngắn gọn và người đọc sẽ khó hình dung ra được. Kim Ca sẽ nói đến một yếu tố quan trọng của Tuần Triệt ở Cung Mệnh.


Đầu tiên là mệnh VCD và sau đó là mệnh có Chính Diệu. Bởi xét cho cùng thì người mệnh VCD là quan tâm hơn cả vấn đề này. Bởi có câu mệnh VCD không yểu cũng bần.

Mệnh vô chính diệu đã được nhiều nhà Tử vi nghiên cứu và nghiệm lý, có người thì nói là nhà không nóc, nhưng có lẽ ít ai hiểu được bản chất thật sự của nó là như thế nào. Đầu tiên nói đến lý thuyết kinh điển về Chủ Khách, lấy Cung Mệnh làm Chủ, Tam phương Tứ chính làm Khách, mệnh Chủ cường hơn Khách thì thuận lợi, ngược lại mệnh Chủ nhược khách cường là gian nan. Khi mệnh VCD thì thiên di luôn có chính diệu, điều dễ dàng nhận thấy là Chủ nhược và Khách cường, khi Chủ nhược thì khả năng chống đỡ Sát Khí từ Tam Phương Tứ chính là kém đi rất nhiều, đó là yếu tố gây nên tai họa cho Mệnh VCD.

Hãy lấy ví dụ : Một người khỏe mạnh, cường tráng ( Chủ cường ) thì không sợ phong ba bão gió của xã hội ( Khách ), đi ngoài đường gặp cơn gió thấy cảm giác mát mẻ dễ chịu, khác với một người ốm yếu ( Chủ yếu ) vì sự biến động của xã hội thường cảm thấy mệt mỏi, đi ngoài đường gặp cơn gió bị cảm mạo, sinh bệnh chết ( Khách mạnh hơn Chủ ), cho nên nói mệnh VCD dễ yểu bởi vì Sát Khí từ Khách xung phá Mệnh quá nhiều. Đó là yếu tố quyết định có yểu hay không, nếu mệnh VCD mà Tam phương Tứ chính cát tinh hột tụ không bị sát tinh xâm phạm thì ta xét đến Cung Mệnh làm Chủ và Cung Đại vận làm Khách, ta lại dễ dàng nhận thấy nếu Tam phương Tứ chính cung Mệnh không có Sát tinh thì tất yếu sẽ hội tụ sát tinh ở Đại vận, Chủ Nhược Khách Cường và lại vẫn bị Sát Khí xâm phạm mạnh mẽ, nên dễ yểu khi vận đi qua Cung sát tinh hội tụ được Hóa Kỵ dẫn động. 

Đó là nói đến cái yểu của người mệnh VCD, bây giờ xét đến cái bần của người VCD. Mệnh VCD Chủ nhược Khách cường thì Mệnh sẽ không làm Chủ được Tài Quan, dẫn đến bị động trong hoàn cảnh, gặp một vấn đề dù biết bản chất của nó là gì, nhưng không biết phải giải quyết thế nào, kinh doanh thì không hoạch tài, làm quan thì dễ bị chèn ép, ý chí thì kém, lại hay thay đổi cũng bởi Chủ nhược. Tất nhiên sẽ có người lý luận tôi không yểu cũng chả bần, nhưng ở đây yểu và bần là xét trung bình cho người mệnh VCD trong xã hội.

Qua những vấn đề được nói ở trên thì rõ ràng mệnh VCD cần Tuần Triệt để ngăn chặn Sát khí từ các cung Khách để tăng thọ, Đối với giàu hay nghèo thì lại phải xem những yếu tố khác nữa. bởi có câu mệnh VCD hội tam không phú quý khả kỳ. Nhưng với Tuần Triệt đã giúp cho bản cung được vững vàng hơn qua việc đánh chặn nguy hại từ bên ngoài. Đặc biệt mệnh VCD quan trọng xét Tứ hóa, và Chủ khách xem có được cát hay không, Khách đa cát tinh hội tụ và Tam hóa thì vẫn có thuận lợi. vì sao mệnh VCD cần hung tinh đắc địa ( kình, đà, hỏa, linh, không, kiếp, hình, hổ ) là bởi vì Hung tinh đắc địa có thể lấy lại sự cân bằng giữa Chủ và Khách. Cát tinh hay hao bại tinh quá yếu không đủ lực. Nhưng mệnh VCD có Tuần khác với mệnh VCD có triệt, điều này sẽ được nói ở phần sau.

Bây giờ ta xét đến người Mệnh có Chính Diệu. Một điều hiển nhiên đó là không có một Chính tinh nào đứng riêng lẽ với nhau, và thay vào đó là đi theo một tổ hợp. Ta lấy Ví dụ : người có mệnh Tử vi. Tử vi luôn tam hợp với Liêm Trinh và Vũ khúc. Theo lý thì Liêm Trinh hỏa ==> Tử vi Thổ ==> Vũ khúc Kim. Đó là sự lý sinh của Ngũ hành, Liêm trinh là Nguyên thần của Tử vi, khi Tử vi bị Tuần Triệt vì Nguyên thần Liêm trinh không sinh trợ được Tử vi, Tử vi hỏa tương thông mà sinh được Vũ khúc Kim, đẫn đến Khí Thổ ứ đọng, bế tắc. Vì vậy mệnh Tử vi Tuần Triệt là kém theo lý ngũ hành. 

Nhưng Tử vi gặp Tuần thì đỡ hơn gặp Triệt, bởi cái lý Âm Dương. theo Tượng thì ví Tử vi như là vua, Liêm Trinh và Vũ khúc là cận thần, Tử vi gặp Tuần Triệt được ví như Vua bị cô lập, không được trợ giúp của Quần thần, giống vua bù nhìn. lẽ dĩ nhiên là kém.

Tuần là được hiểu là Thời Thiên chưa tới, nơi có Địa mà không có Thiên, thiên chưa tới thì sao Địa hóa thành. Cho nên gọi là Không vong. Cũng vì có Địa mà không có Thiên nên Tuần bản chất mang tính Âm. Đối nghịch với Triệt mang tính Dương, điều dễ thấy là nhiều người luận Triệt là chặt chém, Tướng Triệt là tướng mất đầu, Mã triệt là Mã què, âu cũng là do tính Dương của Triệt. Tử vi Dương ngại gặp Tuần hơn Triệt. Tuần tác dụng mạnh lên Tứ hóa, vòng lộc tồn, xét theo Toàn không cách thì Tuần đắc cách hơn là Triệt. Triệt tác dụng mạnh lên sao an theo giờ, ngày, tháng và vòng Thái Tuế. Tuần chế Địa kiếp mạnh hơn Triệt, ngược lại Triệt chế Địa không mạnh hơn Tuần. Tuần chế địa kiếp và Triệt chế Địa không kém hơn vì cái lý cộng hưởng. và cũng bởi cái lý Địa không mang tính Âm, Địa kiếp mang tính Dương. 

Cụ Thiên Lương cho rằng, Tuần Triệt hóa giải nhau ở Đại vận, tức là mệnh Tuần đến vận gặp Triệt thì sẽ được hóa giải. Điều này là có lý của Cụ. Xét Tuần Âm và Triệt Dương, thì Tuần Triệt sẽ kìm chế nhau ở Vận, do đó khả năng của Tuần Triệt ở Đại vận đã giảm đi nhiều. Nhưng không phải là sẽ mất đi Tuần Triệt, giống như Không Kiếp gặp nhau ở Tứ góc thành Âm Dương hợp nhất mà đắc địa, đắc địa thì ít hại hơn là hãm.

Lý Xuất Không Điền Thật. Tuần Triệt được hiểu là Thời chưa tới, khi có Lưu Thái Tuế đến thì đó chính là Thời tới, mà thời tới thì Không Vong sẽ không còn, thời tới khi Lưu Thái tuế xung cung Tuần Triệt hoặc ở ngay cung có Tuần Triệt. Xuất không được hiểu là Không vong đã mất, nếu mệnh có Tuần Triệt thì Lưu Thái Tuế đến mệnh hoặc ở Di xung mệnh, khi Không vong đã mất thì những gì còn lại ở Cung mệnh chính là bản chất thực sự vốn có của nó, như tổ hợp sao phá hay hợp cách...từ đó sẽ thấy được sự thật giả về giàu nghèo, thọ yểu...( Điền Thật ). Do vậy đối với mệnh VCD rất cần chú ý đến vận có Lưu thái tuế xung mệnh, vì khi đó đã mất Không vong, nếu hạn nhập năm đó cũng bị kỵ xung thì quyết là năm đại họa. Đối với người có Chính diệu mà tổ hợp sao đi hợp cách và tốt thì năm đó là năm thăng tiến tài lộc.

Lý giải thêm về Thiên tướng sợ gặp Tuần Triệt, Thiên tướng và Phá quân luôn ở thế Đối Xung ( không phải Đối Cung ). Tương và Phá kìm hãm lẫn nhau, lực tương tác của Phá lên Tướng ngang bằng với lực của Tướng lên Phá. Nhưng khi có Tuần Triệt thì điều đó đã bị phá vỡ, đầu tiên phải nói đến Phùng Phủ khán Tướng, xem Thiên Tướng phải xét đến thiên Phủ, khi Thiên tướng bị Tuần Triệt thì Phủ không thể giúp được Tướng. 

Đó là đặt Tướng vào thế yếu khi so sánh với Phá, do vậy cấu trúc Đối xung bị phá vỡ, đặt Thiên tướng vào thế yếu. Lại xét phân đối cung lưu chi thể dụngng ), nguời mệnh Thiên tướng thì lấy Thiên Tướng làm Thể, Phá Quân làm Dụng, Tướng ở thế yếu thì Thể bị Dụng khắc theo lý đối xung, vì vậy mà nói Thiên tướng sợ gặp Tuần Triệt, vì lý Thiên tướng mang tính Âm nên sợ gặp Triệt hơn Tuần. Có lẽ vậy mà Tướng Triệt là tướng mất đầu chăng? lẽ Triệt chặt chém âu cũng rất có lý (tính Dương).


Theo tác giả Kim Ca

Luận bàn về cách cục "Ngoại Tình" trong tử vi


Trong thời đại ngày nay, phụ nữ được giải phóng về mặt tình dục, tình yêu và gia đạo. Được tự do trong hôn nhân, được bình đẳng trong xã hội nên vì lẽ đó mà tệ nạn ngoại tình, ly dị chồng con cũng diễn ra nhiều hơn ngày xưa. 

Chính vì vậy, có thể những cách cục ngoại tình trong tử vi đã không còn chính xác, nhất là khi luận đoán cần đặc biệt cẩn trọng khi nhắc tới những vấn đề nhảy cảm này. Đôi khi, chỉ cần một lời nói không chính xác của các "thầy" mà người ta tan cửa nát nhà, nhẹ thì ghen tuông nhau cơm không lành canh chẳng ngọt. 

Tuy nhiên tử vi cũng không hẳn không có căn cứ khi xét về khía cạnh ngoại tình của một người. Để chắc chắn, cần xét thật kỹ những điều sau đây.


+ Điều kiện về tính chất:

–      Lá số của nam hay nữ phải chất chứa một nết tình mạnh thiên về nhục dục, hoặc sự si tình, lụy tình, đồng thời với tính nết ham vui chơi, ưa hoang phí, thích thay cũ đổi mới, táo bạo, trí trá ...
–      Phải có nhiều cơ hội tốt cho việc phát tác tình dục biểu lộ trong cung Di, cung Nô, qua những sao ái tình tọa thủ tại 2 cung này. Những lá số có Thân cư Di hội nhiều sao tình dục là ví dụ điển hình.
–      Ngoài điều kiện tích cực, còn có điều kiện tiêu cực là thiếu sự khắc chế tình dục, hoặc sự khắc chế không đủ mạnh so với các sao tình dục hiện diện.

+ Điều kiện về sao:
–      nhất định phải có nhiều sao tình dục hội trụ hoặc tập trung vào những cung cường, sao đồng cung hoặc sao tình dục hạng nặng (Thai, Riêu, Tham, Đào) ...
–      phải có sao đa phu, đa thê
–      phải có sao bất hòa gia đạo, chửa hoang
–      phải có sao bất hạnh (ly tán, đau khổ) gia đạo

+ Điều kiện về cung:
–      sao tình dục phải xuất hiện ở các cung Mệnh, Thân, chiếu Mệnh, chiếu Thân hoặc ở cung Phúc.
–      sao tình dục phải có ở cung Phu Thê
–      sao tình dục phải có ở cung Nô, Di
–      nếu xuất hiện ở cung Hạn (ngoài các cung nêu trên) thì vấn đề ngoại tình xảy ra nhất thời trong hạn đó
–      cung Tử có những sao hai dòng con: cùng mẹ khác cha hay cùng cha khác mẹ

+ Điều kiện thuộc hoàn cảnh:
–      lá số phải được cứu xét trong xã hội có sa đọa hay không
–      nếp sống đương số có sa đọa hay không;
–      cần lưu ý thêm là việc sợ vợ, sợ chồng lắm khi không phải là yếu tố kìm hãm ngoại tình.

+ Những dè dặt cần thiết:
–      sao tình dục hay sao ái tình có khi chỉ có nghĩa là có duyên (Hồng Loan) hay đẹp đẽ (Đào Hoa, Văn Xương, Văn Khúc) hay dâm đãng mà không ngoại tình, hoặc cưới xin dễ dàng;
–      lưu ý tránh ngộ nhận số ngoại tình với số giang hồ, lẽ mọn, lãng tử;
–      gặp trường hợp Thân cư Thê/Phu có những sao ngoại tình cũng phải dè dặt;
–      gặp số có hai đời vợ, hai đời chồng phải dè dặt thêm: có khi là hai vợ, hai chồng đồng thời, có khi là hai đời vợ/hai đời chồng liên tiếp, không trùng hợp nhau.

g. Tình trạng chia ly: sự chia ly ở đây bao hàm hai trường hợp ly thân hay ly hôn chứ không nói đến sự xa cách để làm ăn hay vợ một nơi chống một ngả vì có thuyên chuyển, không nói đến việc một trong hai người chết nửa chừng xuân.
Những điều kiện trực tiếp của tình trạng chia ly gồm có:
–      cung Phu Thê bị Tuần, Triệt đồng cung;
–      cung Phu Thê bị sát tinh xâm phạm;
–      cung Phu Thê bị ám tinh, hao bại tinh, hình tinh đi với sao thay đổi, sao đau buồn, nước mắt, cô độc;
–      cung Phu Thê có sao chỉ hai đời chồng/vợ;
–      cung Tử có những sao chỉ con dị bào;
–      lá số của hai vợ chồng có Bản Mệnh khắc nhau;
–      cung Phúc có nhiều sao bất hạnh gia đạo (cao số, dang dở);
–      cung Mệnh Thân có nhiều sao xui xẻo, đau buồn, nhất là với nữ số;
–      có những chỉ dấu ngoại tình ở vài cung như Nô, Di;
–      thiếu sao giải mạnh và nhiều

Đi vào chi tiết, cần lưu ý các sao sau:

- Những bộ sao của Tử Vi:
Chỉ có Tử Sát và Tử Phá đồng cung nói lên sự chia ly khả hữu:
Tử Sát: nếu hôn nhân bị trắc trở buổi đầu hoặc nếu muộn lập gia đình thì có thể tránh được chia ly. Tuổi muộn thông thường là quá ba mươi. Thất Sát vừa chỉ sự không may, vừa chỉ sự chậm chễ.
Tử Phá: Phá Quân chỉ sự hao tán phu thê cho nên dù đi với Tử Vi cũng không giảm bất lợi. Vợ chồng phải bị chia ly, hình khắc sau khi hiềm khích, giận hờn, gây gổ nhau.

- Những bộ sao của Liêm Trinh:
Liêm ở Dần, Thân: vợ hay chồng phải chắp nối nhiều lần, có họp rồi lại tan, chưa kể việc lấy chồng/vợ nghèo.
Liêm Tướng: hai người không từ biệt cũng chia ly, sau khi gây gổ nhau thường xuyên.
Liêm Tham: cũng chia ly, thông thường có một người bị hình tù.
Liêm Sát: vừa chậm gia đình vừa chia ly.

- Những bộ sao của Thiên Đồng:
Đồng ở Thìn, Tuất: thông thường là bất hòa, nếu không hoặc tử biệt hoặc chia ly.
Đồng, Âm ở Ngọ: nếu muộn gia đạo có thể tránh chia ly. Thường người vợ có lỗi vì Âm hãm ở Ngọ.
Đồng Cự: Vợ chồng hay gây gổ nhau, nghi ngờ nhau, thường bỏ nhau vì mạ lỵ thậm tệ. Sao Cự chỉ ngôn ngữ bất cẩn, cãi vã, thị phi.

- Những bộ sao của Vũ Khúc:
Vũ Sát: sự khắc kỵ gia đạo hết sức nặng nề, mang lại tai họa cho vợ chồng lúc sống chung, một sống một chết, nếu không cũng chia ly.
Vũ Phá: chia ly xảy ra nếu sớm lập gia đình. Vì có Phá Quân, nên có thể hai lần tác hợp.

- Những bộ sao của Thái Dương, Thái Âm:
Dương hãm địa hay Âm hãm địa: nếu muộn gia đình thì tránh được chia ly, duy vợ chồng hay bất hòa và trước khi lấy nhau thường gặp trắc trở.
Cự Dương ở Thân: ý nghĩa như trên.
Âm Dương đồng cung: nếu muộn gia đình thì có thể tránh được cảnh chia ly.

- Những bộ sao của Thiên Cơ:
Cơ Cự: chia ly nếu sớm gia đạo. Sự hiện diện của Cự Môn thường bất lợi cho gia đạo, thường báo hiệu việc bất hòa, gây gổ, hai vợ, hai chồng.
Cơ Nguyệt ở Dần: trắc trở trong việc cưới xin và nếu sớm lập gia đình dễ chia ly.

- Những bộ sao của Tham Lang:
Tham ở Thìn, Tuất: sớm lập gia đình thì dễ chia ly. Vợ thì hay ghen tuông, chồng thì chơi bời.
Tham ở Dần, Thân: vợ chồng dâm đãng, dễ bạc tình, dễ kết hợp nhau cũng dễ chia ly.

Cự Môn ở Thìn, Tuất, Tỵ: phải trắc trở trước khi lập gia đình; bất hòa lúc sống chung; phải chia ly, 2 hoặc 3 lần lập gia đình.

- Những bộ sao của Thiên Tướng:
Tướng ở Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi: sớm lập gia đình thì sẽ bất hòa và dễ chia ly. Đời sống vợ chồng rất cần sự nhịn nhục, vì Thiên Tướng chỉ nóng nảy và lấn át.
Tướng ở Mão, Dậu: ý nghĩa tương tự. Lúc cưới nhau hay gặp cản trở.

- Những bộ sao của Thất Sát:
Sát ở Thìn Tuất: phải vài lần lập gia đình, khó tránh được chia ly.
Sát ở Tý Ngọ: nếu sớm gia đạo, dễ chia ly. Vợ chồng là con trưởng, cả hai rất ghen tuông.

- Những bộ sao của Phá Quân:
Phá ở Thìn, Tuất: nếu sớm thành gia đạo thì chẳng những phải chia ly mà còn phải nhiều lần lập gia đình.
Phá ở Dần, Thân: ý nghĩa càng nặng hơn; vợ chồng chắc chắn phải chia ly vì nguyên nhân ngoại tình.
Phá Quân đắc địa ở Tý, Ngọ: vợ chồng tối thiểu cũng có lúc xa nhau rất lâu.

Thiên Mã, Tuần, Triệt ở Phu ThêTuần Triệt ở Phu Thê chỉ sự bất hạnh lớn lao và liên tiếp, có tính cách lâu dài của đời sống vợ chồng, thậm chí có thể xem như không có vợ/chồng. Chẳng những Tuần, Triệt ở Phu Thê cho thấy sự dang dở mối tình đầu mà còn dang dở vài mối tình kế tiếp. Đời sống gia đạo không những triền miên bất hòa mà có thể đi tới gián đoạn vĩnh viễn. Trong bối cảnh đó, sự có mặt của Thiên Mã càng xác nhận thêm sự ly cách giữa hai vợ chồng. Nếu Thiên Mã được thay bằng những saThiên Đồng, Đại Tiểu Hao cũng chỉ sự thay đổi, có lẽ ý nghĩa cũng tương tự.

Địa Không, Địa Kiếp ở Phu Thê: vợ chồng xa nhau, cụ thể là bỏ nhau, chưa kể có thể một người phải chết. Nếu Không Kiếp đắc địa thì chỉ có thể đoán là tạm thời xa nhau, dưới hình thức ly thân hoặc là người sống một nơi kẻ ở một ngả, lâu lâu mới sum họp một lần hoặc là phải gặp ngang trái nặng trong tình duyên.

Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ: Quan Phủ, Quan Phù chỉ sự phản bội, sự thiếu chung thủy đồng thời cũng có nghĩa kiện tụng. Thái Tuế chỉ cả kiện cáo lẫn cãi vã, đồng thời cũng chỉ sự mất mát tình thương. Như vậy, bộ sao trên  có thể báo hiệu cho sự xung đột giữa hai vợ chồng đưa đến tình trạng lôi nhau ra tòa phân xử, xin ly thân hay ly hôn. Nếu không có chuyện kiện nhau thì vẫn có chuyện âm thầm bỏ nhau, mỗi người một giang sơn, tự do của ai nấy giữ, không còn sự ràng buộc nào giữa hai người.

- Thiên Hình ở Phu Thê: vấn đề tòa án hầu như không tránh được nhất là khi Hình đi chung với một trong ba sao trên. Thiên Hình giúp xác nhận thêm sự ly hôn, ly thân một cách chính thức. Ngoài ra, Hình còn ngụ ý rằng hai vợ chồng có cãi vã đến nỗi đánh đập nhau hoặc người này hành hung người kia. Ngoài ra, Hình có nghĩa là tù ngục nên có thể có một người ở tù sau cơn ẩu đả. Nếu đi chung với Thái Tuế thì có "mạ lỵ thậm từ" và có đánh lộn gây thương tích nhưng chỉ Thiên Hình cũng đã quá đủ.

Cô, Quả, Đẩu Quân ở Phu Thê: riêng 1 trong 3 sao này thật sự không đủ để minh chứng tình trạng ly cách. Nó cần phải đi chung với những sao kể trên. Riêng việc đơn thủ mà thôi thì Cô hay Quả hay Đẩu Quân chỉ sự cô đơn, cô độc dưới nhiều hình thái: hoặc có chồng/vợ vẫn ở chung với nhau mà bị cô đơn vì chồng/vợ không hiểu mình, không bệnh vực mình trước gia đình bên chồng hoặc có vợ/chồng ở chung nhau nhưng không có sự thắm thiết, hầu như mỗi người có ưu tư và nếp sống riêng rẽ, ít khi đồng thuận, không có chung thủy hoặc đối với nữ số, có thể vẫn là vợ chính thức nhưng vẫn bị bỏ rơi vì chồng có vợ lẽ, cả hai cũng vẫn không chia ly hoặc đối với nam số, có thể rơi vào tình trạng vợ lăng loàn, nhưng đành cam chịu vì sợ uy tín, xấu hổ hay sợ vợ ...

h. Trường hợp tử biệt:
–      cung Phu Thê có Tuần, Triệt riêng rẽ hoặc đồng cung trấn thủ, hội với sát tinh, có thể hội thêm với hình tinh, hao bại tinh, ám tinh;
–      cung Mệnh đương số có Cô, Quả, Đẩu Quân, Tang, Hổ;
–      số của hai vợ chồng đối khắc Bản Mệnh và một trong hai lá số rơi vào đặc điểm đầu tiên;
–      những bộ sao chỉ họa cho tính mệnh xuất hiện trong lá số của một người;
–      có những bộ sao chỉ tình trạng chia ly kể trên;
–      có những sao chỉ tình trạng hai đời vợ/đời chồng trong lá số. Việc có con 2 dòng chỉ yếu tố phụ đới, chỉ có giá trị quyết đoán khi gặp trường hợp đầu tiên.

i. Tình trạng án mạng trong gia đạo:

–      một trong hai lá số có những sao sát, nói lên sát nghiệp của người đó, trong khi lá số người kia có những bộ sao chết vì án mạng hoặc yểu. Trong cả hai trường hợp, đều thấy xuất hiện sát tinh hạng nặng như Địa Không, Địa Kiếp, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình, Kiếp Sát, Kình Dương, Đà La. Đôi khi có những sao như Phục Binh, Thiên Không, Tang Môn, Bạch Hổ. Sát tinh hầu hết bị hãm địa, nói lên nghiệp chướng.
–      cung Phu Thê của hai lá số đều gặp nhiều trường hợp bất lợi kể ở các đoạn nói về chia ly, tử biệt, họa cá nhân, họa ngục hình;
–      xét về nguyên nhân, án tình thường bắt nguồn từ sự phản bội của vợ/chồng. Vì vậy, trong số phải có những bộ sao phản bội, lăng loàn, ngoại tình, con dị bào ...
–      xét về hậu quả, án tình, nếu thủ phạm còn sống sót, thường hay đưa đến hình ngục, kiện cáo ...
–      xét về sự trùng phùng, cần quan tâm đến sự hội tụ của sát tinh, hình tinh, hao bại tinh, ám tinh đồng cung hoặc xung chiếu với các sao tình duyên trong một đại hạn hay tiểu hạn nào đó;
–      sự đối khắc giữa hai Bản Mệnh trong trường hợp này nhất định phải có;

–      cần lưu ý đến những sao nói lên cá tính của thủ phạm và nạn nhân. Thủ phạm phải là người tự ái, ghen tuông quá mức, nóng nảy, ích kỷ tột độ, có ác tâm, có sát nghiệp. Nạn nhân là người dâm đãng, trắng trợn, ngang tàng, mạo hiểm, thủ đoạn, dối trá, bê tha, đam mê ...

(Sưu tầm)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét